Từ tính là một thuộc tính của vật liệu. Tất cả các vật liệu, ở mọi trạng thái, dù ít hay nhiều đều biểu hiện tính chất từ. Các vật liệu từ có những ứng dụng rất quan trọng, không thể thiếu được trong khoa học kỹ thuật và cuộc sống. Việc nghiên cứu tính chất từ của vật liệu giúp chúng ta khám phá thêm những bí ẩn của thiên nhiên, nắm vững kiến thức khoa học kỹ thuật để ứng dụng chúng ngày càng có hiệu quả hơn, phục vụ lợi ích con người, đặc biệt là trong lĩnh vực từ học.
Các vật liệu khi được đặt trong từ trường ngoài \( \overrightarrow{H} \) (do một dòng điện hoặc một nam châm vĩnh cửu sinh ra) thì bị nhiễm từ. Tức là chúng có thể hút các mạt sắt hoặc bị hút vào các nam châm vĩnh cửu. Khi đó ta nói vật bị từ hóa hay vật đã bị phân cực từ.
Có thể hình dung một thỏi vật liệu đã được từ hóa như hình ảnh một nam châm hút các mạt sắt mô tả ở hình 15.1. Hai đầu thanh bị phân thành hai cực mà ta quen gọi là cực bắc và cực nam. Sự sắp xếp của mạt sắt ở hai đầu và xung quanh thanh tương tự hình ảnh các đường sức từ đi vào và đi ra ở hai lưỡng cực điện.
Tuy nhiên ở các lưỡng cực từ thì không thể tách rời hai cực từ riêng biệt ra như từng điện tích một được. Nếu bẻ gẫy một thanh nam châm thì ta lại được những thanh nam châm mới, nhỏ hơn, mỗi thanh đều có cực bắc và cực nam, ngay cả khi thỏi nam châm chỉ bằng một nguyên tử thì ta cũng không thể tìm được đơn cực từ hay là cực từ cô lập (hình 15.2). Như vậy, phần tử nhỏ bé nhất có từ tính trong thiên nhiên là lưỡng cực từ.
Nếu có một thanh vật liệu từ dài \( \ell \) (do bằng mét [m], theo hệ SI) và có cường độ cực từ là m (đo bằng Weber [Wb]) thì tích ml gọi là momen từ, đặc trưng cho khả năng chịu tác dụng bởi từ trường ngoài của thanh, kí hiệu là Pm và là một đại lượng vectơ: \( \overrightarrow{M}=m\overrightarrow{\ell } \) [Wb.m] (15.1)
Đơn vị của Pm là Weber.meter [Wb.m].
Tổng các momen từ trong một đơn vị thể tích vật liệu gọi là từ độ hay độ từ hóa, đặc trưng cho từ tính của vật liệu, kí hiệu là J, cũng là một vectơ: \( \overrightarrow{J}=\frac{\overrightarrow{M}}{V} \) [Wb/m2] (15.2)
Đơn vị của \( \overrightarrow{J} \) là Wb/m2 hay Tesla [T].
Khoảng không gian xung quanh các cực từ có một từ trường \( \overrightarrow{H} \), đặc trưng cho tác dụng từ tính của một cực từ này lên một cực từ khác. Vectơ cường độ từ trường đều \( \overrightarrow{H} \) có thể được xác định tương ứng với từ trường được tạo ra bởi một cuộn dây thẳng, dài (cuộn solenoid) có dòng điện chạy qua:
\( \overrightarrow{H}=n.I \) [A/m] (15.3)
Ở đây n là số vòng dây trên 1 m chiều dài cuộn dây, I là cường độ dòng điện trong cuộn dây. Đơn vị của cường độ từ trường là Amper/met [A/m].
Mối quan hệ giữa từ độ \(\overrightarrow{J}\) và từ trường \(\overrightarrow{H}\) được xác định qua biểu thức: \( \overrightarrow{J}=\chi {{\mu }_{0}}\overrightarrow{H} \) (15.4)
Đại lượng không thứ nguyên \( \chi \) gọi là độ cảm từ hay hệ số từ hóa, đặc trưng mức độ hấp thụ từ tính trong một đơn vị thể tích vật liệu, còn \( {{\mu }_{0}} \) là độ từ thẩm của chân không, có giá trị: \( {{\mu }_{0}}=4\pi {{.10}^{-7}} \) [H/m].
Người ta cũng dùng đại lượng cảm ứng từ hay mật độ từ thông \( \overrightarrow{B} \) (đo bằng Tesla [T]), đặc trưng cho mức độ hấp thụ từ tính của vật liệu: \( \overrightarrow{B}=\overrightarrow{J}+{{\mu }_{0}}\overrightarrow{H} \) [T] (15.5)
Thay \( \overrightarrow{J} \) từ (15.4) vào (15.5) ta được: \( \overrightarrow{B}=\left( \chi +1 \right){{\mu }_{0}}\overrightarrow{H}=\mu {{\mu }_{0}}\overrightarrow{H} \) (15.6) với \( \mu =\chi +1 \) là độ từ thẩm của vật liệu, là đại lượng không thứ nguyên.
Các vật liệu từ có từ tính mạnh yếu khác nhau, được phân loại theo cấu trúc và tính chất từ như sau:
a) Chất nghịch từ: là chất có độ cảm từ \( \chi \) có giá trị âm và rất nhỏ hơn 1, chỉ vào khoảng 10-5. Nguồn gốc tính nghịch từ là chuyển động của điện tử trên quỹ đạo quanh hạt nhân, tạo ra từ trường có chiều ngược với từ trường ngoài (hình 15.3)
b) Chất thuận từ: có độ từ hóa \( \chi >0 \) nhưng cũng rất nhỏ, cỡ 10-4 và tỉ lệ với \( \frac{1}{T} \). Khi chưa có từ trường ngoài các momen từ của các nguyên tử hoặc ion thuận từ định hướng hỗn loạn còn khi có từ trường ngoài chúng sắp xếp cùng hướng với từ trường (hình 15.4).
c) Chất sắt từ: độ cảm từ \( \chi \) có giá trị rất lớn, cỡ 106. Ở T < TC (nhiệt độ Curie) từ độ J giảm dần, không tuyến tính khi nhiệt độ tăng lên. Tại T = TC từ độ biến mất. Ở vùng nhiệt độ T > TC giá trị \( \frac{1}{\chi } \) phụ thuộc tuyến tính vào nhiệt độ. Sắt từ là vật liệu từ mạnh, trong chúng luôn tồn tại các momen từ tự phát, sắp xếp một cách có trật tự ngay cả khi không có từ trường ngoài (hình 15.5). Sắt từ còn có nhiều tính chất độc đáo và những ứng dụng quan trọng.
d) Chất phản sắt từ: là chất từ yếu, \( \chi \approx {{10}^{-4}} \), nhưng sự phụ thuộc của \( \frac{1}{\chi } \) vào nhiệt độ không hoàn toàn tuyến tính như chất thuận từ và có một hõm tại nhiệt độ TN (gọi là nhiệt độ Nell).
Khi T < TN trong phản sắt từ cũng tồn tại các momen từ tự phát như sắt từ nhưng chúng sắp xếp đối song song từng đôi một. Khi T > TN sự sắp xếp của các momen từ spin trở nên hỗn loạn và \( \chi \) lại tăng tuyến tính theo t như chất thuận từ (hình 15.6).
e) Chất feri từ: độ cảm từ có giá trị khá lớn, gần bằng của sắt từ ( \( \chi \approx {{10}^{-4}} \)) và cũng tồn tại các momen từ tự phát.
Tuy nhiên cấu trúc tinh thể của chúng gồm hai phân mạng mà ở đó các momen từ spin (do sự tự quay của điện tử tạo ra) có giá trị khác nhau và sắp xếp phản song song với nhau, do đó từ độ tổng cộng khác không ngay cả khi không có từ trường ngoài tác dụng, trong vùng nhiệt độ T < TC. Vì vậy feri từ còn được gọi là phản sắt từ không bù trừ. Khi T > TC trật tự từ bị phá vỡ, vật liệu trở thành thuận từ (hình 15.7).
Ngoài ra người ta cũng còn phân biệt các loại vật liệu từ theo tính năng ứng dụng hoặc thành phần kết cấu của chúng như vật liệu từ cứng (nam châm vĩnh cửu), vật liệu từ mềm, vật liệu từ kim loại, vật liệu từ oxit, vật liệu từ dẻo (cao su, nhựa)… Ở các phần sau sẽ trình bày cụ thể hơn về tính chất của các loại vật liệu từ này.
Ngay từ năm 1820 Amper (A.P. Amper 1775 – 1843, nhà Vật lý Pháp) đã giả thiết rằng từ tính của vật liệu liên quan đến sự tồn tại các dòng điện tròn không tắt dần trong nó. Quan niệm của Amper về nam châm “như là một tập hợp những dòng điện khép kín đặt trên những mặt phẳng vuông góc với đường nối liền hai cực của nam châm”, theo đó có thể quy mọi hiện tượng từ về các tương tác giữa các dòng điện phân tử.
Tới đầu thế kỉ 20, Rutherford (E. Rutherford 1871 – 1937, nhà Vật lý Anh) xây dựng mô hình nguyên tử có các điện tử quay xung quanh một hạt nhân nặng, mang điện dương. Theo quan niệm này thì các dòng điện tròn của Amper sinh ra do các điện tử quay trên các quỹ đạo quanh hạt nhân.
Sau này Planck (Max Planck 1858 – 1947, nhà Vật lý Đức), Bohr (Niels Bohr 185 – 1962, nhà Vật lý Đan Mạch), Broglie (Louis de Broglie 1892 – 1987, nhà Vật lý Pháp), Schrodinger (Erwin Schrodinger 1887 – 1961, nhà Vật lý Áo) và nhiều người khác đã đưa ra thuyết lượng tử hoàn thiện thêm về cấu tạo vật chất, trên cơ sở đó làm sáng tỏ hơn bản chất từ tính của vật liệu.
Nếu coi nguyên tử là phần tử nhỏ bé nhất cấu tạo nên các vật thể thì sự hình thành từ tính của nguyên tử chính là nguồn gốc tính chất từ của vật liệu. Vậy chúng ta hãy khảo sát từ tính của nguyên tử, xuất phát từ tính chất từ của điện tử, hạt nhân.
a) Momen từ của electron
Để đơn giản ta coi quỹ đạo chuyển động của electron quanh hạt nhân là một đường tròn có bán kính r, khi đó momen từ quỹ đạo của electron này xác định theo biểu thức sau:
\( {{\vec{p}}_{m}}=i.\overrightarrow{S}=\frac{e}{T}\pi {{r}^{2}}.\vec{n}=-\frac{e}{2}\vec{\omega }{{r}^{2}}=-\frac{e}{2m}\overrightarrow{\ell } \) (15.7)
Ở đây \( e=1,{{6.10}^{-19}}\text{ }C \) là điện lượng của electron; \( m=9,{{1.10}^{-31}}\text{ }kg \) là khối lượng electron; T và \( \omega \) là chu kì và vận tốc góc quay của electron quanh hạt nhân; \( \overrightarrow{\ell }=m{{r}^{2}}\vec{\omega } \) là momen động lượng quỹ đạo của electron; \( S=\pi {{r}^{2}} \) là diện tích hình tròn quỹ đạo; \( i=\frac{e}{T} \) là cường độ dòng điện do chuyển động của điện tử trên quỹ đạo; \( \vec{n} \) là pháp vectơ đơn vị của mặt phẳng quỹ đạo, xác định theo quy tắc “cái đinh ốc”: xoay cái đinh ốc theo chiều dòng điện thì chiều tiến của cái đinh ốc là chiều của \( \vec{n} \). Do electron mang điện âm nên chiều dòng điện luôn ngược với chiều quay của electron, nên \( \vec{n} \) ngược chiều với \( \vec{\omega } \) và \( \vec{\ell } \).
Từ (15.7) suy ra, quan hệ giữa momen từ quỹ đạo và momen động lượng của electron được xác định bởi tỉ số từ cơ hay tỉ số hồi chuyển:
\( \gamma =\frac{{{{\vec{p}}}_{m}}}{\overrightarrow{\ell }}=-\frac{e}{2m} \) (15.8)
Vectơ momen từ và vectơ momen động lượng của điện tử hướng ngược chiều nhau vì momen từ xác định theo chiều dòng điện còn momen động lượng xác định theo chiều chuyển động của điện tử. Trong cơ học lượng tử mối quan hệ của hai vectơ này được biểu thị dưới dạng toán tử:
\( {{\widehat{{\vec{p}}}}_{m}}=-\frac{e}{2m}\widehat{\overrightarrow{\ell }} \) (15.9)
Trị số về môđun: \( \left| {{{\vec{p}}}_{m}} \right|=\frac{e}{2m}\left| \overrightarrow{\ell } \right|=\frac{e\hbar }{2m}\sqrt{\ell \left( \ell +1 \right)} \) (15.10)
Hình chiếu của \( {{\vec{p}}_{m}} trên trục Oz: {{p}_{mz}}=\frac{e\hbar }{2m}{{m}_{\ell }} \) (15.11)
Với \( \ell \) là số lượng tử quỹ đạo ( \( \ell =0,1,2,3,… \)) và \( {{m}_{\ell }} \) là số lượng tử hình chiếu momen động lượng trên trục z hay là số lượng tử từ quỹ đạo ( \( {{m}_{\ell }}=0,\pm 1,\pm 2,\pm \ell \)); \( \hbar =\frac{h}{2\pi } \) và \( h=6,{{6238.10}^{-34}}\text{ }Js \) là hằng số Planck.
Mặt khác, electron cũng tự quay xung quanh mình nó (chuyển động nội tại) nên có momen từ spin (spin có nghĩa là tự quay) có giá trị lớn gấp 2 lần momen từ quỹ đạo: \( {{\vec{p}}_{s}}=-\frac{e}{m}\vec{s} \) (15.12) hay \(\left| {{{\vec{p}}}_{s}} \right|=\frac{e\hbar }{m}\sqrt{s\left( s+1 \right)}\) (15.13)
Ở đây s là số lượng tử spin, đặc trưng trạng thái của electron. Chiếu lên phương z có: \( {{p}_{sz}}=\frac{e\hbar }{m}{{m}_{s}}=\pm \frac{e\hbar }{2m}=\pm {{\mu }_{B}} \) (15.14)
Ở đây \( {{m}_{s}}=\pm \frac{1}{2} \) là số lượng tử từ spin và \( {{\mu }_{B}}=\frac{e\hbar }{2m}=0,{{927.10}^{-23}}A{{m}^{2}} \) (hay J/T) gọi là magneton Bohr, là đơn vị đo từ độ của nguyên tử.
Với các nguyên tử phức tạp lớp vỏ điện tử gồm nhiều electron, momen từ quỹ đạo tổng cộng và cả momen từ spin, bằng tổng các momen từ của các electron riêng lẻ. Các nguyên tử có lớp vỏ electron lấp đầy có momen từ bằng không. Ở các hợp chất mỗi electron có thể thuộc về nhiều nguyên tử hay toàn mạng (mô hình electron tự do). Trong trường hợp này người ta giải thích từ tính của electron theo thuyết vùng năng lượng mà ở đây không xét đến.
b) Momen từ của hạt nhân
hạt nhân nguyên tử mang điện tích dương, có thể coi nó như một điện tích bé nhỏ, dịch chuyển tại chỗ (do dao động nhiệt) có spin và tương tác với nhau bằng các momen từ. về độ lớn, spin hạt nhân bằng spin electron (do điện tích bằng nhau), nhưng khối lượng hạt nhân thường lớn gấp 103 lần khối lượng của electron, do đó theo biểu thức (15.14) momen từ hạt nhân phải nhỏ hơn momen từ electron tới 3 bậc, vì vậy nó ảnh hưởng rất ít đến tính chất từ của vật liệu, có thể bỏ qua. Tuy nhiên trong một số trạng thái, ví dụ như hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân …, vai trò của momen từ hạt nhân là rất quan trọng.
c) Momen từ tổng hợp của nguyên tử
Như đã trình bày ở trên, momen từ hạt nhân rất nhỏ bé, có thể bỏ qua, vì vậy momen từ của nguyên tử là tổng các momen từ của các electron. Mà tổng các momen từ quỹ đạo của các electron: \( {{\overrightarrow{P}}_{L}}=\sum\limits_{i}{{{{\vec{p}}}_{mi}}} \) (15.15a)
Theo cơ học lượng tử, ta có: \( {{P}_{L}}=\sum\limits_{i}{{{p}_{mi}}}=\frac{e\hbar }{2m}\sqrt{L\left( L+1 \right)} \) (15.15b)
Với \( L=\sum\limits_{i}{{{\ell }_{i}}} \) là momen động lượng tổng cộng của electron.
Momen từ spin của nguyên tử: \( {{\overrightarrow{P}}_{s}}=\sum\limits_{i}{{{{\vec{p}}}_{si}}} \) (15.16a)
Và độ lớn của momen từ spin: \( {{P}_{S}}=\sum\limits_{i}{{{p}_{si}}}=\frac{e\hbar }{m}\sqrt{S\left( S+1 \right)} \) (1.16b)
Ở đây \( S=\sum\limits_{i}{{{s}_{i}}} \) là tổng số lượng tử trạng thái.
Momen từ tổng cộng của nguyên tử: \( {{\overrightarrow{P}}_{J}}={{\overrightarrow{P}}_{L}}+{{\overrightarrow{P}}_{S}} \) (15.17a)
Và \( {{P}_{J}}={{P}_{L}}+{{P}_{S}}=\frac{e}{2m}\left( L+2S \right) \) (15.17b)
Gọi J là số lượng tử momen động lượng toàn phần của electron, J có thể nhận các giá trị: \( J=L+S,L+S-1,L+S-2,…,L-S \) nếu L > S
Hoặc \( J=S+L,S+L-1,S+L-2,…,S-L \) nếu S > L
Khi đó có: \( \left| {{P}_{J}} \right|=g{{\mu }_{B}}\sqrt{J\left( J+1 \right)} \) (15.18)
Và hình chiếu của \({{\overrightarrow{P}}_{J}}\) lên trục z: \({{P}_{Jz}}=g{{\mu }_{B}}{{m}_{J}}\) (15.19)
Với g là thừa số Landé: \( g=1+\frac{J\left( J+1 \right)+S\left( S+1 \right)-L\left( L+1 \right)}{2J\left( J+1 \right)} \) (15.20)
Hay thừa số tách mức từ, mJ là số lượng tử hình chiếu momen động lượng toàn phần, có thể nhận (2J + 1) giá trị: \( {{m}_{J}}=0,\pm 1,\pm 2,…,\pm J \)
Ở trạng thái cơ bản, các số lượng tử S, L, J được xác định bằng quy tắc Hund, áp dụng cho các electron trong một lớp cho trước của nguyên tử như sau:
+ Spin toàn phần S có giá trị cực đại thỏa mãn nguyên lý loại trừ Pauli – mỗi trạng thái ứng với 4 số lượng tử \( n,\ell ,{{m}_{\ell }},{{m}_{s}} \) chỉ có một electron chiếm chỗ.
+ Momen quỹ đạo L (momen động lượng) có giá trị cực đại phù hợp với giá trị đó của S.
+ Momen động lượng toàn phần J = L – S khi lớp được lấp đầy chưa đến ½ và J = L + S khi lớp được lấp đầy trên ½ (nếu lớp được lấp đầy đúng 1/2 thì theo quy tắc đầu L = 0 và J = S).
Các quy tắc Hund có nguồn gốc là ở trạng thái cơ bản năng lượng của các lớp electron phải thấp nhất. Khi L = 0, nghĩa là chỉ có số từ spin thì g = 2; khi S = 0, nghĩa là chỉ có số từ quỹ đạo, g = 1. Thường người ta không quan tâm đến biểu thức (15.18) mà chỉ lưu ý đến biểu thức (15.19) đối với momen từ nguyên tử.
Ở tất cả các nguyên tử và ion có lớp vỏ lấp đầy S = 0, L = 0 và J = 0, momen từ của chúng bằng 0. Vì vậy, tính từ hóa gắn liền với sự có mặt trong nguyên tử có lớp vỏ không lấp đầy electron. Theo nguyên lý Pauli ở mỗi trạng thái lượng tử không có quá 2 electron có spin đối song song, như vậy momen spin tổng cộng của các electron này bằng 0. Các electron này gọi là “electron cặp đôi”. Nếu một nguyên tử hoặc ion bao gồm một số lẻ các electron thì 1 trong chúng sẽ không cặp đôi được và nhìn chung nguyên tử này có khả năng xuất hiện momen từ. Đối với các nguyên tử có số chẳn electron có thể xảy ra 2 trường hợp: tất cả các electron không cặp đôi và nguyên tử sẽ có momen từ. Ví dụ H, K, Na, Ag có số lẻ các electron và một trong chúng không cặp đôi; Be, C, He, Mg có số chẵn electron và tất cả chúng đều cặp đôi; Oxy có số chẵn electron nhưng 2 trong chúng không cặp đôi.
Khi tính tổng các momen từ quỹ đạo và momen từ spin có thể xảy ra trường hợp chúng bù trừ nhau và momen tổng hợp của nguyên tử bằng 0, còn nếu không có bù trừ thì nguyên tử sẽ có momen từ, tức là chúng có từ tính. Có thể dựa vào đây để phân loại vật liệu từ.
Những vật liệu mà nguyên tử của nó không có khả năng tạo momen từ thì gọi là những vật liệu nghịch từ (hình 15.3), những vật liệu mà nguyên tử của nó có khả năng có momen từ thì có thể là thuận từ, sắt từ, phản sắt từ hay feri từ. Các vật liệu có tổng các momen từ bằng 0 hoặc rất nhỏ thì là thuận từ (hình 15.4). Ở các vật liệu mà các momen từ bằng 0 hoặc rất nhỏ thì là thuận từ (hình 15.4). Ở các vật liệu có tổng các momen từ định hướng song song với nhau, tức là momen từ tổng cộng rất lớn, thì là sắt từ (hình 15.5). Các vật liệu phản sắt từ có các momen từ đối song song với nhau (hình 15.6). Vật liệu feri từ như đã biết, có các momen từ đối song song nhưng độ lớn của chúng không bằng nhau (hình 15.7).
Thư Viện Bài Giảng Vật Lý Đại Cương được xây dựng trên WordPress